Ngày 12 tháng 7 năm 2016, một tòa án trọng tài tại Tòa án Trọng tài thường trực ở The Hague đã đưa ra phán quyết trong vụ kiện của Manila chống lại các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh ở Biển Đông. Được triệu tập theo các điều khoản giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), năm trọng tài của tòa án trọng tài đưa ra phán quyết nghiêng về hướng có lợi cho Philíppin. Bắc Kinh từ chối tham gia phân xử trọng tài và bác bỏ kết quả này. Trong khi đó, Tổng thống mới nhậm chức của Philíppin, Rodrigo Duterte, đã xem nhẹ chiến thắng này với hy vọng xoa dịu Trung Quốc và hướng tới một chính sách hòa giải hơn, do đó áp lực quốc tế bắt buộc Trung Quốc tuân thủ phán quyết cũng bị tan biến. Phán quyết đã làm rõ các khía cạnh quan trọng của UNCLOS và luật hải quan quốc tế, nhưng chưa bao giờ mang nhiều hy vọng rằng Bắc Kinh sẽ chấp nhận những tuyên bố này.
Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát đã hy vọng rằng theo thời gian, Trung Quốc có thể tìm ra những phương pháp giữ được thể diện chính trị nhằm đưa các tuyên bố và hành vi của mình phù hợp với nội dung của phán quyết, ngay cả khi bác bỏ tiến trình này. Trong vòng ba năm kể từ ngày có phán quyết của tòa trọng tài và kể từ khi Manila áp dụng chính sách tiện lợi hơn đối với Bắc Kinh, Trung Quốc có tiến gần hơn đến việc tuân thủ không? AMTI đã tổng hợp một danh sách các tuyên bố khả thi từ tòa án trọng tài và đánh giá xem các hành động gần đây của Trung Quốc có tuân thủ với chúng hay không. Nhìn chung, Trung Quốc chỉ tuân thủ 2 trong số 11 phần của phán quyết, trong khi những quan điểm khác của họ thì quá không rõ ràng để đánh giá được.
Bản Báo cáo về sự Tuân thủ Phân xử Trọng tài
(Nhấn vào từng hàng để biết thêm thông tin)
- Trung Quốc không thể tuyên bố quyền lịch sử hoặc các quyền khác trong phạm vi “đường lưỡi bò” ngoài lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), và thềm lục địa được UNCLOS cho phép.
- Bãi cạn Scarborough và các thực thể nổi khi thủy triều dâng cao tại Trường Sa hình thành các vùng lãnh hải nhưng không tạo ra vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.
- Bãi Cỏ Mây và vùng biển quanh nơi này là một phần của EEZ và thềm lục địa của Philíppin.
- Trung Quốc chiếm đóng trái phép đảo Vành Khăn, một phần thuộc thềm lục địa Philíppin.
- Trung Quốc ngăn chặn Philíppin khai thác tài nguyên trên thềm lục địa của mình một cách bất hợp pháp.
- Trung Quốc đã vi phạm quyền đánh bắt của Philíppin trong EEZ của mình.
- Trung Quốc không thể ngăn chặn ngư dân của họ hoạt động bất hợp pháp trong EEZ của Philíppin.
- Trung Quốc ngăn chặn hoạt động đánh cá truyền thống của người Philíppin tại Bãi cạn Scarborough một cách bất hợp pháp
- Trung Quốc cho phép ngư dân của họ tham gia khai thác trái phép các loài có nguy cơ tuyệt chủng.
- Trung Quốc đã phá hủy trái phép môi trường biển thông qua chiến dịch xây dựng đảo của mình.
- • Các tàu chấp pháp của Trung Quốc đã vi phạm Công ước Quốc Tế về Phòng ngừa Đâm va trên Biển (COLREGS) do gây ra nguy cơ va chạm và nguy hiểm cho các tàu của Philíppin.
Trong một trong hai quyết định có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong vụ kiện, các trọng tài viên nhận thấy rằng “Công ước [UNCLOS] quy định phạm vi quyền có vùng biển trên Biển Đông, có thể không vượt quá giới hạn áp đặt trong đó” (Phán quyết, đoạn. 278). Điều này có nghĩa là các “tuyên bố của Trung Quốc đối với các quyền lịch sử, hoặc các quyền về chủ quyền và phạm vi quyền hạn khác, liên quan đến… ‘đường lưỡi bò’ trái với Công ước và không có hiệu lực pháp lý” nếu họ vượt ra ngoài lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), và thềm lục địa mà UNCLOS công nhận (đoạn 279).
Tuy nhiên, một ngày sau khi ban hành phán quyết của tòa trọng tài, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã công bố sách trắng trong đó tuyên bố mạnh mẽ, “Ngoài [vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp, EEZ và thềm lục địa], Trung Quốc có quyền lịch sử ở Biển Đông.” Trong ba năm qua, các quan chức Trung Quốc đã hạn chế nói về đường lưỡi bò như là cơ sở của tuyên bố của họ đối với Biển Đông, nhưng Trung Quốc vẫn tiếp tục tuyên bố các quyền lịch sử không rõ ràng đối với hầu như tất cả các vùng biển và đáy biển trên Biển Đông. Dựa trên cơ sở đó, ngư dân Trung Quốc hoạt động trong EEZ của Việt Nam, Philíppin, và Inđônêxia, và trên những vùng Bắc Kinh phản đối tất cả các hoạt động về dầu khí trong phạm vi đường lưỡi bò, bất kể khoảng cách của các hoạt động này so với các thực thể đất mà Trung Quốc tuyên bố.
Tuyên bố quan trọng thứ hai trong trường hợp này là cả Bãi cạn Scarborough và bất kỳ thực thể nổi khi thủy triều dâng cao nào tại quần đảo Trường Sa đều “không có khả năng duy trì nơi cư trú của con người hoặc đời sống kinh tế của chính mình” và “do đó không là vùng đá nổi hợp pháp theo Điều 121(3) và không tạo ra các quyền lợi cho một vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa” (đoạn 643 và 646). Điều này có nghĩa là các EEZ và thềm lục địa duy nhất tại Biển Đông là những vùng được tạo ra bởi đường bờ biển của các quốc gia xung quanh và, có thể, một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa. Trường Sa và Bãi cạn Scarborough chỉ hình thành vùng lãnh hải dài 12 hải lý. Cùng với sự bác bỏ của tòa án đối với tuyên bố của Trung Quốc về các quyền lịch sử trong đường lưỡi bò, điều này làm thu nhỏ khu vực tranh chấp pháp lý quanh các đảo và bãi đá như sau:
Phần lớn tin rằng Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ Bãi cạn Scarborough và nhiều nơi khác, nếu không nói là tất cả, của Trường Sa, nhưng điều này đã không được nêu rõ trong luật pháp hoặc tuyên bố công khai của Trung Quốc. Sách trắng 2016 của Bắc Kinh khẳng định rằng “Dựa theo Nanhai Zhudao [các đảo trên Biển Đông], Trung Quốc sở hữu vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.” Nhưng có thể lập luận rằng điều này chỉ có nghĩa là một số đảo, đặc biệt là Hoàng Sa, tạo ra các quyền này. Ngoài ra, các hành động của Trung Quốc trong EEZ của các nước láng giềng có thể được giải thích bởi sự đòi hỏi liên tục của họ đối với các quyền lịch sử, và do đó không phải là bằng chứng cho các tuyên bố về các đặc khu kinh tế và thềm lục địa từ Trường Sa hoặc Bãi cạn Scarborough. Các tiến triển trong tương lai, ví dụ như việc tuyên bố các đường cơ sở eo biển quanh các thực thể mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền tại Trường Sa, có thể khiến sự không tuân thủ theo phán quyết này của Trung Quốc trở nên rõ ràng hơn. Nhưng hiện tại các tuyên bố của Bắc Kinh vẫn còn quá mơ hồ nên không đánh giá rõ ràng được
Tòa án trọng tài tuyên bố rằng Bãi Cỏ Mây, bị chiếm đóng từ năm 1999 do một tàu hải quân Philíppin tên là Sierra Madre cố tình neo đậu, nằm dưới nước khi thủy triều lên và không tạo ra bất kỳ quyền hàng hải nào. Và bởi vì không thực thể nào của Quần đảo Trường Sa có thể tạo ra các đặc khu kinh tế hay thềm lục địa, “Nên theo đó, Trung Quốc không có quyền sở hữu nào đối với bất kỳ vùng biển nào trong khu vực.” Bãi Cỏ Mây nằm trong phạm vi 200 hải lý từ bờ biển Philíppin và do đó “là một phần thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philíppin” (đoạn 646 và 647). Tuy nhiên, các tàu Cảnh sát biển Trung Quốc vẫn thường xuyên tuần tra gần Bãi Cỏ Mây và vào tháng 5 năm 2018, một chiếc trực thăng của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) đã quấy rối một cách nguy hiểm đối với nhiệm vụ tiếp tế cho Sierra Madre của Philíppin
GIống như Bãi Cỏ Mây, toà án trọng tài phán quyết rằng Đá Vành Khăn là một thực thể lúc nổi lúc chìm và thuộc một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philíppin. Hơn nữa, “qua việc xây dựng các công trình lắp đặt và đảo nhân tạo tại Đá Vành Khăn mà không có sự cho phép của Philíppin, các trọng tài tuyên bố rằng Trung Quốc đã vi phạm Điều 60 và 80 của Công ước…Toà án trọng tài phán quyết thêm rằng, vì là một thực thể lúc nổi lúc chìm, Đá Vành Khăn không thể bị chiếm đoạt” (đoạn 1043). Đây có lẽ là phần khó nhất trong phán quyết để tưởng tượng Trung Quốc sẽ tuân thủ vì điều đó bắt buộc họ phải từ bỏ căn cứ hải quân và không quân ở Đá Vành Khăn, hoặc nhận được sự cho phép từ Philíppin để tiếp tục sự chiếm đóng của mình. Trong lúc đó, Trung Quốc không chỉ chiếm đóng thực thể, mà dường như tiếp tục yêu sách các quyền lợi hàng hải qua việc phản đối các hoạt động tuần tra tự do hàng hải của Mỹ trong khu vực 12 hải lý gần các cơ sở của Trung Quốc.
Phán quyết của tòa án trọng tài đã kết luận rằng Bãi Cỏ Rong, khu vực nằm hoàn toàn dưới nước và nằm trong phạm vi 200 hải lý của Philíppin, là một phần của thềm lục địa đất nước này. Bằng cách nhắc đến một sự cố cụ thể trong đó các tàu chấp pháp Trung Quốc ngăn chặn hoạt động của tàu khảo sát Philíppin, tòa án tuyên bố “Trung Quốc đã…vi phạm Điều 77 của Công ước liên quan đến quyền chủ quyền của Philíppin đối với các nguồn tài nguyên phi sinh vật tại thềm lục địa của nước này trong khu vực Bãi Cỏ Rong” (đoạn 716). Trung Quốc tiếp tục ngăn chặn Philíppin khai thác dầu khí tại Bãi Cỏ Rong bất chấp phán quyết. Vào tháng 11 năm 2018, hai bên đã ký kết bản ghi nhớ có thể mở đường cho sự phát triển dầu khí tại Bãi Cỏ Rong. Các chi tiết của bản ghi nhớ vẫn chưa được chia sẻ và có khả năng thỏa thuận này có thể mở đường cho Trung Quốc tuân thủ phán quyết về mặt quy tắc. Nếu Bắc Kinh đồng ý cho một công ty Trung Quốc đầu tư vào hợp đồng dịch vụ của Philíppin (SC 72) tại Bãi Cỏ Rong dưới sự giám sát của Manila, thì thỏa thuận này sẽ phù hợp với phán quyết. Nhưng nếu Trung Quốc cương quyết với thỏa thuận phát triển chung ngoài phạm vi quyền tài phán của Philíppin, điều đó càng đẩy mạnh sự không tuân thủ của Trung Quốc.
Toà án trọng tài tuyên bố Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền của Philíppin đối với tài nguyên sinh vật trong EEZ của Philíppin, đặc biệt là bằng cách ban hành lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông vào năm 2012, không ngoại trừ các khu vực tại Biển Đông nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philíppin và không giới hạn lệnh cấm đối với các tàu treo cờ Trung Quốc (đoạn 716). Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn tiếp tục đơn phương tuyên bố lệnh cấm đánh cá từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm trên tất cả các vùng biển phía bắc vĩ độ 12, bao gồm phần lớn các vùng EEZ của Philíppin và Việt Nam. Lệnh cấm gần đây nhất đã gây ra những phản ứng phẫn nộ từ văn phòng của tổng thống Philíppin.
Các trọng tài xác định rằng Trung Quốc đã “đã không xét đến quyền chủ quyền của Philíppin đối với việc đánh bắt trong EEZ của họ,” có trích dẫn các trường hợp mà ở đó các tàu chấp pháp Trung Quốc dung túng và không ngăn các tàu mang cờ Trung Quốc hoạt động tại Đảo Vành Khăn và Bãi Cỏ Mây vào năm 2013 (đoạn 757). Hàng trăm tàu đánh cá Trung Quốc hàng ngày vẫn tiếp tục hoạt động dưới sự giám sát của Cảnh sát Biển Trung Quốc tại Đảo Vành Khăn và trên khắp Trường Sa, mặc dù hầu hết các tàu này dành nhiều thời gian phục vụ trong lực lượng dân quân hàng hải hơn là đánh bắt cá. Vào tháng 6, một tàu cá Trung Quốc hoạt động trong vùng EEZ của Philíppin tại Đảo Vành Khăn đã đánh chìm một tàu đánh cá của Philíppin, dẫn đến khủng hoảng tiếp diễn trong mối quan hệ giữa Trung Quốc và Philíppin. Tại những nơi khác trên Biển Đông, các tàu đánh cá từ Trung Quốc tiếp tục hoạt động với sự hỗ trợ của cảnh sát biển và hải quân ở xa tới tận vùng EEZ của Inđônêxia
Tại Bãi cạn Scarborough, nơi có một số tảng đá chắn nước khi thủy triều lên, tòa án kết luận rằng cả ngư dân Trung Quốc và Philíppin đều có quyền tham gia đánh bắt cá truyền thống mặc cho bên nào có chủ quyền đối với bãi cạn này. Nhưng các trọng tài phán quyết rằng Trung Quốc đã, “thông qua hoạt động của các tàu chính thức của họ tại Bãi cạn Scarborough từ tháng 5 năm 2012 trở đi, ngăn chặn một cách bất hợp pháp ngư dân Philíppin tham gia đánh bắt cá truyền thống” (đoạn 814). Đến cuối năm 2016, trong một cử chỉ thiện chí với chính quyền của ông Duterte, các tàu Cảnh sát Biển Trung Quốc đóng quân tại Scarboroug đã bắt đầu cho phép các tàu cá Philíppin hoạt động dọc bên ngoài đảo, nhưng họ không được phép đánh cá bên trong vùng ven biển. Việc đó vẫn duy trì đến hiện tại, dù tình hình vẫn căng thẳng trong bối cảnh có các báo cáo về hành động quấy rối và đe dọa ngư dân Philíppin của các lực lượng chấp pháp Trung Quốc tại đảo
Tuy nhiên, đây là một khía cạnh của phán quyết mà Trung Quốc tuân thủ nhất. Và thực tế đó rất quan trọng về mặt chính trị đối với chính phủ của ông Duterte tới mức, gần đây, tổng thống đã tuyên bố thực hiện một thỏa thuận bằng lời bí mật với Chủ tịch Tập Cận Bình vào năm 2016 để nhắm mắt làm ngơ trước việc đánh bắt cá của Trung Quốc tại vùng EEZ của Philíppin để đổi lấy quyền đánh cá cho người Philíppin tại Bãi cạn Scarborough, một giao dịch có hiệu lực trao đổi sự không tuân thủ với một phần của phán quyết với sự tuân thủ theo một phần khác.
Phán quyết kết luận rằng Trung Quốc đã, “ vi phạm Điều 192 và 194 (5) của Công ước khi dung túng, bảo vệ, và không ngăn chặn các tàu cá Trung Quốc tham gia vào các hoạt động khai thác có hại đối với các loài có nguy cơ tuyệt chủng tại Bãi cạn Scarborough, Bãi Cỏ Mây và các thực thể khác tại Quần đảo Trường Sa,” (đoạn 992). Điều này phần lớn, mặc dù không phải hoàn toàn, liên quan đến việc khai thác quy mô lớn các loài nghêu khổng lồ có nguy cơ tuyệt chủng và làm hư hại nặng nề hoặc phá hủy hơn 25.000 mẫu rạn san hô cạn từ năm 2012 đến 2016, ngay dưới sự giám sát của các tàu chấp pháp Trung Quốc. Sau khi ngừng hoạt động sau năm 2016, những người thu hoạch ngao Trung Quốc đã tiếp tục hoạt động phá hoại của mình tại Bãi cạn Scarborough và khắp Hoàng Sa, thường hành động trong tầm quan sát của Cảnh sát Biển Trung Quốc.
Toà án tuyên bố từ cuối năm 2013, “các hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc tại Bãi Tốc Tan, Đá Chữ Thập, Đá Gaven (Bắc), Đá Gạc M, Đá Tư Nghĩa, Đá Xu Bi và Đảo Vảnh Khăn, vi phạm Điều 192, 194(1), 194(5), 197, 123 và 206 của Công ước,” trong đó quy định nghĩa vụ bắt buộc phải bảo vệ và giữ gìn môi trường biển (đoạn 993). Trung Quốc đã hoàn thành công tác nạo vét và chôn lấp tại quần đảo Trường Sa vào cuối năm 2016, và hoạt động xây dựng đảo cuối cùng được ghi nhận tại bất kỳ nơi nào trên Biển Đông là ở Hoàng Sa vào giữa năm 2017. Có thể lập luận rằng một số hoạt động đang diễn ra của Trung Quốc, ví dụ như việc lắp đặt các trạm giám sát trên các bãi đá tại Hoàng Sa, vẫn gây thiệt hại cho môi trường sống trên biển một cách bất hợp pháp mà không có các đánh giá tác động môi trường thích hợp. Nhưng do hết không gian chôn lấp, về mặt nguyên tắc Trung Quốc hiện đang tuân thủ phần lớn mục phán quyết này. Tuy nhiên, điều đó có thể thay đổi nếu Trung Quốc triển khai công việc nạo vét hoặc chôn lấp mới tại Bãi cạn Scarborough hoặc các nơi khác.
Cuối cùng, các trọng tài phán quyết rằng trong tranh chấp diễn ra năm 2012 sau khi chiếm giữ Bãi cạn Scarborough, các tàu chấp pháp Trung Quốc đã “tạo ra nguy cơ va chạm và nguy hiểm đối với các tàu và nhân sự của Philíppin,” tức là Trung Quốc đã “vi phạm Quy tắc 2, 6, 7, 8, 15, và 16 của COLREGS [Công ước Quốc Tế về Phòng ngừa Đâm va trên Biển] và… Điều 94 của Công ước.” Mặc dù những sự cố này không lặp lại tại Bãi cạn Scarborough do chính quyền Philíppin luôn giữ khoảng cách, nhưng Cảnh sát Biển Trung Quốc, PLAN, và các tàu dân quân hàng hải vẫn thường xuyên gây ra các vi phạm tương tự với COLREG khi tạo ra nguy cơ va chạm đối với các tàu nước ngoài hoạt động trên Biển Đông. Hành động quấy rối tàu tiếp tế của Philíppin gần Bãi Cỏ Mây vào tháng 5 năm 2018 là một ví dụ. Các hành động nguy hiểm của tàu PLAN trong cuộc tuần tra tự do của tàu USS Decatur trên khắp Hoàng Sa vào tháng 10 năm 2018 là một ví dụ khác. Và sau đó là tàu đánh cá và dân quân do nhà nước chỉ đạo của Trung Quốc thường xuyên vi phạm COLREG nhắm tới các nước cùng tuyên bố chủ quyền và các nước hành động ngoài khu vực.