Các báo cáo cho thấy Hà Nội gần đây đã ngừng khai thác dầu và khí đốt ở Lô 136-03 trên Bãi Tư Chính để đối phó với sự đe dọa của Trung Quốc dùng vũ lực tấn công các tiền đồn của Việt Nam trong khu vực đó. Mặc dù không thể xác minh được tuyên bố đó nhưng việc này thể hiện rõ điểm yếu của nhiều căn cứ nhỏ của Việt Nam trong và xung quanh Quần đảo Trường Sa. AMTI đã xác nhận trước đó  việc mở rộng tất cả trừ 2 trong 10 hòn đảo nhỏ mà Việt Nam kiểm soát (Đảo Amboyna Cay và Namyit chưa thấy có sự cải tạo rõ rệt nào).

Tuy nhiên, phần lớn các thực thể mà Việt Nam kiểm soát đều không phải là đá hoặc đảo;  mà là các bãi hoặc rạn san hô ngầm được Hà Nội xây dựng các công trình nhỏ và cách biệt phía trên. Những cơ sở này rất khó bảo vệ hoặc tái cung cấp, điều này đã làm cho chúng rất dễ bị tấn công. Việt Nam nhận ra điều này và đã mở rộng một cách khiêm tốn nhiều nhiều thực thể kể từ năm 2014, cùng thời điểm mối quan hệ với Bắc Kinh đạt mức thấp lịch sử sau cuộc đối đầu với việc Trung Quốc triển khai giàn khoan trong vùng biển tranh chấp bên ngoài Hoàng Sa.

Trong nhiều trường hợp, Hà Nội đã xây dựng nhiều cơ sở trên một bãi hoặc rạn san hô, dẫn đến sự nhầm lẫn về số lượng thực thể mà nước này thực sự kiểm soát. Việt Nam có 48 hoặc 50 tiền đồn (không rõ liệu hai đảo nhân tạo trên Đảo Núi Le đã bị bão phá hủy vào cuối năm 2015 có bị bỏ hoang hay không) trải dài trên 27 thực thể. Tập ảnh dưới đây bao gồm hình ảnh về tất cả các tiền đồn của Việt Nam.

Các tiền đồn của Việt Nam ở Biển Đông được chia thành ba loại: các hòn đảo được kiểm soát, các tòa nhà bê tông nằm trên rạn đá ngầm (đôi khi được so sánh với “các công sự bê tông ngầm”), và các dàn khoan cách biệt được xây dựng trên các bờ dưới đáy biển. Loại thứ hai được gọi là “các trạm dịch vụ kinh tế, khoa học và kỹ thuật” hoặc Dịch vụ-Khoa (DK1). Chính phủ Việt Nam không coi sáu bờ mà trên đó các cấu trúc này được xây dựng nên là một phần của Quần đảo Trường Sa đang tranh chấp, nhưng Trung Quốc và Đài Loan thì ngược lại. Các bờ này nằm trên thềm lục địa mà Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền bờ biển.

Cuộn hoặc sử dụng các nút để phóng to/thu nhỏ, di chuột qua các cơ sở để xem tên.

Hà Nội đã xây dựng cấu trúc DK1 vào cuối những năm 1980 và 1990 nhằm đáp trả sự chiếm đóng của Trung Quốc đối với 6 dải đá ngầm ở Trường Sa và tuyên bố sở hữu các khu dầu khí lấn sang các khu dầu khí của Việt Nam tại Bãi Tư Chính. Một vài công trình nguyên bản đã bị bão phá hủy, nhưng hiện vẫn còn 14 công trình (cùng với một công trình ở Vịnh Thái Lan). Bản thiết kế tiêu chuẩn cho các cơ sở của DK1 bao gồm một tòa nhà một hoặc hai tầng trên các giàn thép cùng một đơn vị đồn trú nhỏ. Một số cơ sở có bãi đáp trực thăng ở tầng trên cùng và một vài cơ sở có ngọn hải đăng. Kể từ năm 2014, 8 trong số các cơ sở này đã được bổ sung thêm công trình có nhiều tầng phụ với bãi đáp trực thăng lớn hơn kết nối với cơ sở ban đầu bằng một chiếc cầu.

24 cơ sở giống công sự bê tông ngầm mà Việt Nam đã xây dựng trên các rạn san hô trên khắp Quần đảo Trường Sa chỉ ít điểm yếu hơn một chút so với các giàn khoan DK1. Mỗi cơ sở bao gồm từ một đến bốn công trình bằng bê tông riêng biệt được kết nối bởi các cây cầu, thường có các cầu tàu cho phép thuyền nhỏ đậu. Giống như giàn khoan DK1, những công trình này rất khó bảo vệ và tái cung cấp. Nhiều công trình chỉ có thể tiếp cận bằng những con thuyền có thể đi qua vùng nước nông trên rạn đá ngầm, điều này có thể khiến chúng bị cô lập ngay cả khi ở trong phạm vi quan sát từ những công trình khác trên cùng một cơ sở. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã nạo vét các kênh đèo thông qua nhiều rạn san hô để cho phép các tàu lớn hơn tiếp cận các tiền đồn. Từ năm 2014, Việt Nam cũng đã mở rộng 4 trong số các cơ sở bằng cách bổ sung thêm các tòa nhà và cầu nối.

Danh sách đầy đủ các cơ sở của Việt Nam trên Biển Đông: